- Chuyên mục: Tư vấn luật hôn nhân
- Ngày đăng: 21/01/2022
- Tác giả: Luật sư Nguyễn Lâm Sơn
Trên thực tế, khi một người muốn nhận con nuôi thì việc nhận con nuôi bắt buộc phải được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để được công nhận mối quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi theo quy định.
Khi cha mẹ nuôi, con nuôi muốn chấm dứt nuôi con nuôi muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi, con nuôi hoặc cha, mẹ nuôi cũng phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Luật về việc chấm dứt nuôi con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi 2010. Luật Thành Đô trân trọng giới thiệu bài viết về “Quy định về việc chấm dứt nuôi con nuôi”.
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
– Luật nuôi con nuôi năm 2010

II. QUY ĐỊNH VỀ VIỆC CHẤM DỨT NUÔI CON NUÔI
2.1. Căn cứ và thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi
Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi được quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi năm 2010. Theo quy định tại Điều luật này, việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
+ Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;
+ Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
+ Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
+ Người nhận con nuôi có các hành vi sau đây:
Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em.
Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi.
Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số.
Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi.
Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Theo đó thì khi muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi cần phải thuộc các trường hợp nêu trên. Theo quy định tại Điều 26 Luật nuôi con nuôi 2010 thì tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi bao gồm những những chủ thể sau:
+ Cha mẹ nuôi.
+ Con nuôi đã thành niên.
+ Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.
+ Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có một trong các căn cứ con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi hoặc các hành vi của người nhận con nuôi vừa nêu trên. Cụ thể là Cơ quan lao động, thương binh và xã hội; Hội liên hiệp phụ nữ. có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Khi có yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thì thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thuộc về Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
2.2. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi
Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi được quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi năm 2010. Theo đó, khi Tòa án nhân dân có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi thì:
+ Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
+ Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó.
+ Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con được khôi phục.
+ Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
+ Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.
Bài viết cùng chủ đề:
Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không?
Trên đây, là bài viết của Luật Thành Đô về “Quy định về việc chấm dứt nuôi con nuôi”. Quý khách hàng vui lòng tham khảo bài viết trên, nếu có bất kỳ vướng mắc nào liên quan đến xử lý vi phạm các quy định về chấm dứt nuôi con nuôi vui lòng liên hệ Luật Thành Đô để được tư vấn.
Vui lòng để lại thông tin liên hệ, chúng tôi sẽ gọi lại ngay cho bạn

- Hotline: 0919.089.888
- Tổng đài: 024 3789 8686
- luatsu@luatthanhdo.com.vn